ỨNG DỤNG CỦA MINIVIT TRONG CHỈNH NHA P2

ỨNG DỤNG CỦA MINIVIT TRONG CHỈNH NHA P2

| |Thư viện

Chiều dài minivis: Niêm mạc vòm miệng dày 6 mm, dùng minivis 12 mm. Niêm mạc đường giữa vòm miệng mỏng hơn, dùng minivis 6-7 mm. Vùng xương ổ răng phía má, lợi dính, dùng minivis 7-8 mm. Bệnh nhân người lớn với xương vỏ dày đặc, dùng minivis 7 mm. Bệnh nhân trẻ em, xương vỏ ít đặc hơn, dùng minivis 8 mm. Mặt ngoài các răng cửa trên, xương có chất lượng tốt và không chịu lực nhai, dùng minivis 6 mm

Đường kính của thân vít có thể dao động từ 1,2 đến 2,0 mm. Lựa chọn đường kính minivis phụ thuộc vào vị trí cắm vít. Chúng tôi đưa ra khuyến cáo sau đây: Mặt ngoài xương hàm trên, minivis đường kính 1,3-1,5 mm. Vùng liên chân răng phía vòm miệng, minivis đường kính 1,4-1,6 mm. Vùng đường giữa vòm miệng, phụ thuộc vào mật độ xương, đường kính minivis 1,6-2,0 mm.

Có một số hình dạng chỏm vít bao gồm chỏm phẳng và chỏm trụ; lựa chọn hình dạng chỏm cũng phụ thuộc vào vị trí cắm minivis, khả năng tiếp cận, và hướng tác dụng lực. Nếu chỏm vít có nguy cơ gây kích thích mô mềm thì nên sử dụng chỏm phẳng chứ không nên dùng chỏm dạng trụ. Các yếu tố như dễ tiếp cận cho nha sĩ, sử dụng chỉ thép buộc, lò xo, chun chỉ hay chun chuỗi đều ảnh hưởng tới việc lựa chọn chỏm vít.

Minivis hàm dưới Trong giới hạn cung hàm dưới, các minivis cắm ở mặt trong thường có xu hướng gây kích thích lưỡi; do đó nên lựa chọn thiết kế chỏm vít dạng phẳng hơn là dạng trụ. Cắm minivis hàm dưới ở mặt trong là một thủ thuật khó. Vì những hạn chế này, nên cắm minivis hàm dưới ở mặt ngoài, ngay cả cho các trường hợp điều trị niềng răng mặt trong Ít trường hợp niềng răng mặt trong cần thêm lực để đánh lún các răng cửa dưới; tuy nhiên, nếu cần thiết, có thể cắm minivs ở xương vỏ phía dưới các răng cửa dưới. Theo quy tắc chung, ít nhất 5 mm thân vít cần nằm trong xương Ở những bệnh nhân có chất lượng xương vỏ tốt, minivis dài 6 mm là đủ; ở những bệnh nhân trẻ tuổi với xương vỏ ít đặc hơn, nên lựa chọn minivis 7-8 mm. Ở vùng hậu hàm, độ dày niêm mạc có thể thay đổi nhiều; nên đo độ dày này bằng kim tiêm tê. Xương vỏ mặt ngoài ở vùng răng cửa dưới thường tương đối đặcl hơn nữa vùng này không chịu lực nhai, nên minivis 5 mm là đủ.

Đường kính của minivis cho mặt ngoài hàm dưới có thể dao động từ 1,4-1,5 mm; và cho vùng răng cửa dưới nên dùng vít mảnh hơn, dao động từ 1,2-1,3 mm. Theo nguyên tắc chung, dù cắm minivis ở hàm trên hay hàm dưới thì cũng luôn cố cắm vít sao cho chỏm vít nằm ở lợi dính mà không nằm ở niêm mạc di động. Nếu chỏm vít nằm ở niêm mạc di động, mô mềm sẽ tăng sinh và phủ lên chỏm vít. Nếu chủ đích cắm minivis ở niêm mạc di động thì nên buộc chỉ thép vào chỏm vít để tạo thành hook, cho phép tác dụng lực kéo xuyên qua niêm mạc di động

Cần buộc chỉ thép vào chỏm minivis xuyên qua niêm mạc vào khoang miệng. Tác dụng lực chỉnh nha Minivis được làm từ hợp kim titan và vẫn có một mức độ tích hợp xương giữa vít và xương. Tuy nhiên, tỉ lệ thành công của minivis không phụ thuộc vào tích hợp xương; mà nó chỉ phụ thuộc vào sự lưu giữ cơ học của vít trong xương. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, có thể tác dụng lực ngay sau khi cắm minivis. Sự lưu giữ cơ học có thể chịu được lực 300 g tác dụng ngay sau khi cắm minivis. Tháo minivis Mặc dù vẫn có tích hợp xương giữa minivis titan và xương, nhưng việc tháo vít không hề khó khăn. Các vít đường kính 1,4 mm hoặc nhỏ hơn có thể tháo ra dễ dàng bằng mô men xoắn ít hơn 2-3 NCm. Chỉ một thất bại đã được báo cáo khi tháo vít đường kính 1,6 mm. Để dễ tháo vít, nên dùng vít có đường

kính nhỏ hơn và xoay cây vặn tay hoặc máy theo hướng ngược với khi cắm vít. Thường không cần gây tê tại chỗ; thỉnh thoảng có thể cần gây tê bề mặt. Tổng kết Hiện nay, niềng răng mặt trong có thể và đang đạt được những kết quả điều trị tuyệt vời. Đối với nhiều bệnh nhân, vì lý do thẩm mỹ, niềng răng mặt trong là lựa chọn duy nhất. Một số bác sĩ chỉnh nha có thể vẫn còn do dự hoặc không muốn thử điều trị niềng răng mặt trong; tuy nhiên, một số bài báo đã cho thấy rằng, với kỹ thuật gắn gián tiếp, sử dụng dây thẳng và neo chặn bằng minivis, thì niềng răng mặt trong đã trở nên đơn giản hơn rất nhiều và đã trở thành lựa chọn điều trị tuyệt vời trong chỉnh nha thế kỷ 21.